Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền
Anh thương em thì cho bạc cho tiền, đừng
cho lúa gạo xóm giềng cười chê!
Cái
Răng là nơi đất tốt, đông dân cư, được lập làng từ thời Minh Mạng. Khoảng 1889
– 1890 người Pháp cho đào tại đây một con kinh, lúc đầu chưa có tên sau đó đặt
là kinh/rạch Cái Răng. Về mặt quản lý hành chính, tiên khởi Tòa Bố tỉnh Cần Thơ
đặt tại Trà Ôn (làng Thiện Mỹ, tổng Bình Lễ), nhưng chỉ được một năm thì dời về
đặt ở Cái Răng (làng Thường Thạnh, tổng Định Bảo). Sau, do Nghị định của Soái
phủ Nam Kỳ ngày 23-2-1876 vùng Phong Phú lập thành tỉnh Cần Thơ, tỉnh lỵ đặt tại
đây. Từ đó Trà Ôn và Cái Răng trở thành quận.
Thời
khẩn hoang, sinh hoạt đời sống người nông dân còn lẩn quẩn theo phương thức tự
cung tự cấp, “ông Táo” lúc ấy chỉ là 3 cục đất, hoặc đá kê chụm lại, bắc nồi
trách lên, đem nấu bằng củi đòn, củi chẻ. Phải một thời gian khá dài, cả trăm
năm sau, khi mà cuộc sống người nông dân Nam bộ dần đi vào ổn định thì người ta
mới thấy có chiếc cà ràng được làm bằng đất xuất hiện, thay thế cho ông Táo thô
sơ trước đó. Tất nhiên lúc đầu kiểu dáng chưa mấy khéo, đẹp, có thể rất thô vụng
và mau hư bể vì chất đất nguyên liệu có sẵn tại mỗi địa phương không chịu nổi sức
nóng của lửa khi chụm. Về sau, do công năng độc đáo của nó, chiếc cà ràng trở
thành một loại phương tiện nấu nướng, nó không chỉ hiện diện tại bếp ăn mỗi nhà
mà còn theo chân người nông dân vào tận những vùng sâu, vùng xa trong những
tháng gắn với mùa vụ. Chưa hết, nó còn là bạn đồng hành với những người nghèo
chuyên sống nghề câu lưới, cũng là người bạn thân thiết của giới thương hồ
quanh năm lênh đênh trên sông nước.
Nhưng
từ đâu mà có chiếc cà ràng với kiểu dáng đáng yêu và trở thành vật dụng gắn bó
thân thiết cuộc sống con người như vậy?
Có
thuyết cho rằng chiếc cà ràng trước hết người Xiêm sáng tạo, đem bán ở chợ Nam
Vang (Phnom Penh, Campuchia), các lái rỗi người Việt – nói chung là dân thương
hồ – làm ăn ở Nam Vang mua dùng, thấy tiện ích nên trong những chuyến về lại
quê nhà, lấy đất sét sẵn có ở địa phương, phỏng theo kiểu mẫu mà nặn đắp ra để
xài. Song do đặc điểm của loại đất nguyên liệu này không chịu được lửa trong điều
kiện nung đất tự do, tức không kiểm soát được nhiệt độ phù hợp nhất định, nên
cà ràng làm bằng các loại đất ở đồng bằng đều mau hư, dễ bể. Riêng về đất sét tự
nhiên, ngoài ưu điểm mềm dẻo, cũng có những nhược điểm nhất định nếu dùng nó để
tạo hình làm gốm thô, nhất là đối với những vật thể mỏng mảnh, vì khi đem nung
đốt chúng sẽ dễ bị nứt, nên bị xem là “đất xấu”.
Cho
nên chiếc cà ràng chỉ được làm bằng loại đất đặc biệt ở miền núi, tốt nhất là đất
lấy ở chân núi Nam Vi, miệt Xà Tón (Tri Tôn, An Giang) vì nó có tính năng kết
dính rất tốt, nên xài bền, có khi vài năm cũng chưa bể, gãy. Chính vì thế nên
bà con vùng Xà Tón có điều kiện sản xuất hàng loạt, sỉ cho các ghe thương hồ
đem bán tại các chợ lớn, chợ nhỏ, hoặc bán lẻ tận những vùng sâu, vùng xa khắp
Đồng bằng sông Cửu Long. Lộ trình thuận tiện nhất của các ghe này là xuôi theo
dòng Hậu Giang, thả xuống “miệt vườn”, “miệt dưới”... mà Cái Răng được xem là
“tổng đại lý” mặt hàng này. Cái Răng, cách tỉnh lỵ Cần Thơ 6 km về phía Tây
Nam, trên Quốc lộ 1, từ quận Ninh Kiều (TP Cần Thơ) đi Sóc Trăng. Do thuận lợi
việc giao thông thủy, bộ nên sớm trở thành nơi đô hội.
Năm
1897, toàn Cần Thơ có 10 chợ thì Cái Răng là một trong 10 chợ ấy. Vì bán đủ các
mặt hàng nông lâm thủy sản nên được xem là chợ chánh, sầm uất hơn cả chợ Cần
Thơ, lỵ sở huyện Phong Phú (lúc bấy giờ thuộc làng Tân An, tổng Định Bảo). Sách
Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, 1909) mô tả:
Chợ Cái Răng xứ hào hoa
Phố lầu hai dãy xinh đà quá xinh
Có trường hát cất rộng thinh
Để khi hứng cảnh thích tình xướng ca
Từ
lâu, trong dân gian còn có câu hát huê tình:
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No
Có thương em, anh mua cho một chiếc đò
Để em lên xuống thăm dò ý anh!
Thời
Pháp, Cái Răng từng là nơi sản xuất lúa gạo nổi tiếng nhất trong khu vực. Nhờ
có đường bộ rộng rãi, đường sông lưu thông dễ dàng nên hoạt động kinh thương
nơi đây phát triển mạnh, vì vậy ở Cái Răng đã sớm có chành lúa, và nhà máy xay
xát quy mô, đủ khả năng tiếp nhận lúa toàn cả miền Hậu Giang để chế biến chuyển
về Chợ Lớn xuất khẩu. Cần Thơ sớm trở thành xứ “cả cơm lớn tiền”!
Câu
hát cũ ghi lại dấu ấn tình hình lúa gạo hàng hóa nơi đây rất nhiều, nhiều đến mức
không ít người địa phương đã xem đó là “chuyện thường”:
Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền
Anh có thương em thì cho bạc cho tiền,
đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê
Chợ
Cái Răng nhộn nhịp trên bến dưới thuyền nên các ghe cà ràng ở “miệt trên” không
thể không đến đây chọn bến cắm sào. Trước ít sau nhiều, nhiều mãi đến mức cà
ràng trở thành mặt hàng “ngoại nhập” được người tiêu dùng ưa thích, chiếm tỉ trọng
áp đảo, nên bến chợ này được bà con đặt gọi chợ “Cà Ràng” (âm từ tiếng kran hay
karan), sau nói trại ra là “Cái Răng”.
Cụ
Vương Hồng Sển có ghi trong sách Tự vị tiếng Việt miền Nam (Nhà xuất bản Văn
hóa, 1993) ở mục từ “Cái Răng”, trang 98: "Cà ràng hình thù như con số 8 để nằm, một đầu
là ba ông Táo lú đầu lên cao để đội nồi ơ siêu trách, còn một đầu kia nắn cái bụng
chang bang dài dài vừa vặn với cây củi chụm, bụng này chứa được tro nhiều không
rơi rớt ra ngoài, lại ấm cúng che kín gió, mau chín mau sôi". Truy nguyên ra,
trong sách Pháp, Le Cisbassac chẳng hạn, và nhiều sách khác đã có từ lâu vẫn
ghi: “Krôk kran: rạch Cái Răng, nay cứ lấy điển này làm chắc, một đàng khác hỏi
thăm người cố cựu bản xứ thuật rằng ngày xưa, không biết từ đời nào, nguyên người
Thổ (Cơ Me) ở Xà Tón (Tri Tôn) chuyên làm nồi đất và “karan” chất đầy mui ghe lớn
rồi thả theo sông cái đến đậu ghe nơi chỗ này để bán, năm này qua năm nọ, chầy
ngày người mình phát âm “karan” biến ra “Cái Răng” rồi trở nên địa danh thiệt
thọ của chỗ này luôn”.
Trong
tự điển J.B.Bernard, ghi rõ rằng, địa danh rạch Cái Răng là: krêk karan (hay
kran), là cà ràng.
Chăng
kran, Choeung kran: fourneau portatif Khmer: Cà ràng Miên.
Choeung
kran Xiêm: Cà ràng của người Xiêm đem bán chợ Nam Vang.
Thật
ra chiếc cà ràng đã từng có mặt trên vùng đất này khoảng 1.500 – 2.000 năm (thế
kỷ I đến thế kỷ VI). Chủ nhân của nó là cư dân thuộc nền văn hóa cổ nào đó ở Đồng
bằng sông Cửu Long, bởi qua khai quật những di chỉ khảo cổ ở nhiều nơi trong
vùng, thí dụ như kết quả khai quật khảo cổ học tại Gò Tháp (huyện Tháp Mười, Đồng
Tháp) năm 2000 vừa qua, người ta đã bắt gặp hàng vạn hiện vật, đa phần là những
mảnh gốm bể, trong đó nhiều nhất là mảnh bể cà ràng, vòi ấm (siêu), nồi, tô
chén, chum vại, lu hũ... Theo các nhà khảo cổ thì cà ràng và vòi ấm (siêu) là
hiện vật đặc trưng của nền văn hóa Óc Eo. Điều đó giúp chúng ta kết luận, cư
dân của tầng văn hóa này là các bộ tộc thuộc vương quốc Phù Nam.
Vậy
thì, chiếc cà ràng đã là vật dụng thân thiết trong sinh hoạt đời sống con người
từ hàng ngàn năm trước. Và ngày nay, như chúng ta đều biết, để phù hợp với những
loại chất đốt phế liệu/phế phẩm có sẵn rất nhiều tại từng địa phương, chiếc cà
ràng đã dần dần biến mất.
Theo
đó, Cái Răng không phải là cái răng trong miệng, mà Cái Răng là cà ràng.